Tin tứcNgày: 29-09-2020 bởi: Mã Thị Vân
Lịch sử nước ion kiềm và phê duyệt y tế
Bạn có biết: Lịch sử hình thành nước kiềm vẫn được nhiều người đặt dấu hỏi chấm mặc dù biết rằng giá trị mà nước kiềm mang lại không hề nhỏ.
Có rất nhiều ý kiến nói về lợi ích của nước kiềm bắt đầu ở Nhật Bản vào Thế kỷ 20. Tuy nhiên, có một số bằng chứng cho thấy sự hiểu biết và sử dụng nước ion kiềm bắt đầu sớm hơn nhiều.
Hippocrates, được gọi là Cha của Y học, đã quan sát thấy rằng mọi người thường khỏi bệnh sau khi tắm ở một số địa điểm nhất định. Ông đã phát triển một lý thuyết rằng thành phần khoáng chất trong nước có thể góp phần vào tác dụng chữa bệnh này. Lý thuyết của ông phát triển thành phương pháp điều trị được gọi là balneology, hay điều trị bệnh bằng cách sử dụng bồn tắm. Mặc dù có nhiều loại nước khác nhau được sử dụng cho các loại nước tắm này, nhưng tắm kiềm có liên quan đến việc thanh lọc gan, điều chỉnh cholesterol và kích thích tuyến tụy và ruột. Các bệnh tiểu đường, sỏi tiết niệu, dị ứng, bệnh gút, viêm đường hô hấp và các vấn đề tiêu hóa đã được cải thiện nhờ loại nước này.
Vào những năm 1930, một nhà khoa học người Romania bắt đầu nghiên cứu chế độ ăn uống và cung cấp nước của người Hunza, một nhóm dân cư sống cực kỳ lâu đời trên dãy núi Himalaya ở Pakistan. Những người này thường sống qua 120 tuổi và sinh con lâu hơn nhiều so với các quần thể lân cận. Tiến sĩ Henri Coanda đã tìm hiểu nguồn cung cấp nước kiềm chảy từ các sông băng cao trên núi. Ông đưa ra giả thuyết rằng có thể sửa đổi các nguồn cung cấp nước khác để mô phỏng tác động của "nước ion hóa trong tự nhiên" của người Hunza đối với nước của họ. Ông đã không phát triển phương pháp gây ra sự thay đổi này trong nước, nhưng ông đã nhận ra và viết về những lợi ích của việc uống nước ion từ rất sớm.
Trong ba mươi năm sau đó, người Nhật đã nghiên cứu quá trình tách nước thành các thành phần kiềm và axit thông qua điện phân. Các thí nghiệm ban đầu sử dụng nước này đã được thực hiện trên thực vật và động vật và cuối cùng là trên con người.
Dưới đây là lịch sử sơ lược và phê duyệt y tế của việc sản xuất nước ion kiềm được tham khảo từ Molecular Hydrogen Institute (MHI) - cơ quan hàng đầu về khoa học hydro phân tử. Xem chi tiết link gốc tại đây.
Lịch sử sơ lược
Nước ion kiềm Electrolyzed reduced water (ERW) là thuật ngữ phổ biến trong các tài liệu khoa học. ERW có độ pH kiềm từ 8-10 và chứa hydro phân tử. Máy điện giải đã được phát minh từ những năm đầu 1900. Vào năm 1931 tại Nhật Bản các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về điện phân nước và khiến chúng phổ biến ở nước này vào những năm 1950. Trong khoảng thời gian này, với khả năng “chữa lành”, ERW còn được gọi là giải pháp “shin’nooru” hay nước “synnohl”. Năm 1962, các công ty sản xuất máy điện giải (1 công ty từ thành phố Nagano và 1 công ty từ thành phố Kyoto) đã được bộ Y tế ( tương đương với Bộ Lao động, Y tế và Phúc lợi Nhật Bản “JMHLW”) chứng nhận đủ điều kiện như một máy y tế chăm sóc sức khỏe.
Sơ lược lịch sử hình thành nước kiềm
Chứng nhận y tế
Tuy nhiên, vì một số loại nước máy đầu vào không đáp ứng đủ yêu cầu khoáng thích hợp cho điện phân, nên sẽ không mang lại đặc tính như nước kiềm đúng nghĩa. Bằng cách thêm canxi lactate đã giải quyết vấn đề trên. Các máy điện giải đi cùng việc thêm canxi lactate là điều kiện kiên quyết đã được Bộ Y tế cấp phép là máy hỗ trợ chăm sóc y tế với những công dụng sau:
Uống nước ion kiềm giúp chống lại hiện tượng tiêu chảy mãn tính, chứng khó tiêu, các bệnh về dạ dày hay chống rối loạn và cân bằng axit trong đường ruột.
Bộ Lao động, Y tế và Phúc lợi Nhật Bản đồng thời cũng phê duyệt nước có tính axit yếu và mạnh là một hóa chất y tế. Năm 1978, Bộ Y tế Hàn Quốc FDA cũng cấp phép cho máy điện giải vì lý do tương tự. Quá trình phê duyệt tuân theo các tiêu chí và tiêu chuẩn như Nhật Bản. Một số ý kiến khác cho rằng các phê duyệt trên hoàn toàn khác nhau, phê duyệt của Nhật Bản yêu cầu thử nghiệm rộng rãi, thậm chí là thử nghiệm lâm sàng và kéo dài đến 5 năm hoặc dựa trên nhiều đợt kiểm tra gắt gao hơn so với Hàn Quốc.
Sự hoài nghi và câu chuyện marketing
Máy điện giải tiếp tục phát triển, cho đến năm 1979 máy điện giải thế hệ mới với khả năng xử lý trực tiếp nước máy đầu vào được cấp phép. Ngay sau đó, các bộ lọc nước đã được thêm vào máy và các chiến lược marketing nước ion kiềm bắt đầu trở nên phong phú.
Vào tháng 6 năm 1992, một chương trình tin tức trên truyền hình đã tiếp thị nước ion kiềm với tên gọi " Nước thần kì ". Đây là một kiểu tiếp thị, cho rằng loại nước này được sử dụng trong các bệnh viện, có tác dụng chống lại các bệnh tật, chẳng hạn như bệnh tiểu đường. Các phương tiện truyền thông đã khiến mọi người lầm tưởng về khả năng của nước ion kiềm so với các tác dụng mà bộ Y tế đã phê duyệt.
Tuy nhiên do cấp phép ban đầu của bộ Y tế yêu cầu phải sử dụng canxi lactate đi cùng máy điện giải mà canxi đã được công nhận có tác dụng trong việc cải thiện các vấn đề về đường tiêu hóa như tiêu chảy mãn tính, giảm axit trong dạ dày, chứng khó tiêu nên cộng đồng y khoa bắt đầu có những hoài nghi về hiệu quả của nước điện giải – phải chăng hiệu quả này là từ tác dụng của canxi mà ra ? Vào tháng 12 năm 1992, cuộc khảo sát chất lượng sản phẩm của Cục Bảo vệ người tiêu dùng Nhật Bản cho rằng không thể nào nước kiềm sẽ đem lại hiệu quả tương tự như thuốc tiêu hóa do cần uống nhiều hơn 10l nước mới có thể trung hòa lượng axit trong dạ dày. Điều này càng dấy thêm lo ngại về tác dụng thực sự của nước kiềm.
Đi tìm tác dụng thực sự
Năm 1993, khoa Y của đại học Kyoto đã tiến hành cuộc thử nghiệm với 193 người bao gồm người mắc và không mắc vấn đề tiêu hóa. Nghiên cứu cho thấy không có sự cải thiện rõ ràng nào khi uống
nhưng có xuất hiện sự cải thiện nhẹ. Đạo luật về Thuốc, Mỹ phẩm, Vật dụng Y tế của Nhật Bản năm 2005 đã công nhận những máy sản xuất ERW như một thiết bị y tế cho gia đình, giúp cải thiện đường tiêu hóa.
Tình hình máy điện giải hiện nay
Hiện tại, để sản xuất hoặc bán thiết bị điện giải, các công ty phải được JMHLW chứng nhận theo tiêu chuẩn Bộ Y tế. Nếu một thiết bị tạo ra nước có độ pH từ 8,5 trở lên thì cần phải được phê duyệt. Thiết bị sẽ được kiểm tra để đảm bảo an toàn cũng như khả năng tạo ra nước kiềm (ví dụ: pH? 9,5) theo tiêu chuẩn JIS-T 2004. Điều này tương tự như FDA Hoa Kỳ kiểm định về các sản phẩm y tế. Ví dụ: chỉ nha khoa, găng tay khám bệnh, ghế lăn, v.v... Sau khi đáp ứng các yêu cầu trên, sẽ có số cấp phép. Các sản phẩm thương mại phải ghi rõ số cấp phép này.
Đã có ít nhất mười tám công ty sản xuất máy điện giải khác nhau đã được JMHLW phê duyệt và chứng nhận. Bởi vì tất cả các máy phải tuân thủ các yêu cầu như nhau để được phê duyệt y tế, nên các sản phẩm cơ bản sẽ có cùng cấu trúc điện phân cũng như các nguyên tắc điện phân giống nhau, do đó không có sự khác biệt đáng kể giữa các máy về độ tinh khiết của bạch kim hay thiết kế. Tuy nhiên, nồng độ hydro hòa tan và mức bảo dưỡng cần thiết (có thể) sẽ có khả năng khác nhau.
Cấm marketing quá đà
Tại Nhật Bản, bộ Y tế đã ban hành những điều cấm nghiêm ngặt liên quan đến tiếp thị, quảng cáo gây hiểu lầm. Ví dụ, tên của máy điện giải không được phép nói khống tác dụng (ví dụ: Nước thần, nước kì diệu, v.v.). Nội dung quảng cáo không được quá những gì đã được phê duyệt. Thực tế là các thiết bị này đã được phân loại là thiết bị y tế nhưng không đưa ra được bằng chứng về khả năng điều trị hay ngăn ngừa bệnh tật. Có người khẳng định rằng phần lớn các bệnh viện ở Nhật Bản sử dụng và kê đơn nước ion kiềm cho bệnh nhân của họ, nhưng điều này là không đúng. Nhiều bác sĩ y tế ở Nhật Bản chưa bao giờ nhìn thấy hoặc thậm chí nghe nói về máy điện giải được sử dụng cho bệnh nhân trong bệnh viện. Đã có một quảng cáo đời đầu của Nhật Bản tung ra ví dụ này và điều này là trái sự thật.