Tin tứcNgày: 09-09-2019 bởi: Mã Thị Vân
Thủy ngân và những điều cần biết
Sự cố cháy ở Công ty Rạng Đông và mức thuỷ ngân vượt ngưỡng cho phép theo các so sánh với tiêu chuẩn nc ngoài (gấp từ 10 - 30 lần quy định của WHO và Mỹ - ko rõ mức quy định đó là bao nhiêu)!
Thực ra, đối với các nhà máy như Rạng Đông, luật VN đã quy định rất rõ về việc bắt buộc lập Kế hoạch hoặc Biện pháp ứng phó sự cố hoá chất và phải phê duyệt nên khi xảy ra sự cố cứ làm theo là đã tốt rồi. Không rõ Kế hoạch đó như thế nào mà mọi thứ như một dấu hỏi chấm, thông tin thì không rõ ràng.
Thủy ngân là gì?
Thuỷ ngân là một trong các chất độc hại đầu bảng và là chất có sẵn trong thiên nhiên. Thuỷ ngân luôn có sẵn ở khắp nơi quanh ta: trong đất, trong nước, trong thức ăn, nước uống, thực phẩm, mỹ phẩm, dược phẩm... và trong không khí lúc nào cũng có thuỷ ngân ít nhất là ở lượng vết (lượng vô cùng nhỏ và phát hiện được bằng các phương pháp phân tích). Vì thuỷ ngân độc, người ta phải quy định bằng luật pháp các giới hạn cho phép của hàm lượng thuỷ ngân trong môi trường nhà xưởng sản xuất, trong nước sinh hoạt, trong thiết bị chiếu sáng, trong khí thải của các nhà máy dùng than làm nhiên liệu.... để bảo vệ sức khoẻ và môi trường.
Thủy ngân
Người ta thường chia thuỷ ngân và các hợp chất của thuỷ ngân thành ba loại chính: thuỷ ngân kim loại (thuỷ ngân lỏng, amalgam tức hợp kim của thuỷ ngân với kim loại khác) , thuỷ ngân hữu cơ (methyl thuỷ ngân, ethyl thuỷ ngân...) và thuỷ ngân vô cơ (vd: muối clorua thuỷ ngân chẳng hạn). Vụ cháy ở Rạng Đông liên quan đến thuỷ ngân kim loại.
Thuỷ ngân vô cùng độc hại, mức độ độc tuỳ vào việc nó tồn tại ở dạng nào. Nó tác động tới não, hệ thần kinh và thần kinh trung ương làm thiểu năng trí tuệ, gây bệnh thần kinh, bệnh run tay, rối loạn nhận thức... và các bệnh về phổi, tim, thận, ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi, của trẻ con (gây bệnh thần kinh hoặc thiểu năng trí tuệ chả hạn)... có thể gây chết người nếu ngộ độc nặng.
Mức độc hại của các dạng thuỷ ngân được sắp xếp như sau:
Hơi thuỷ ngân ~ Methyl thuỷ ngân >>> thuỷ ngân vô cơ và các loại thuỷ ngân khác.
Hơi thuỷ ngân luôn hiện hữu khi có mặt thuỷ ngân lỏng. Thuỷ ngân lỏng ở mức độ nào đó bay hơi ngay ở nhiệt độ thường vì thế người ta luôn phải quy định thành luật về việc phải thu gom thuỷ ngân ngay và đúng cách dù chỉ bị rơi vãi ở lượng rất nhỏ (VD: thu gom bóng đèn neon vỡ, nhiệt kế thuỷ ngân vỡ...). Thuỷ ngân lỏng khi bị rơi vãi rất khó thu gom vì chúng dễ hình thành các hạt tròn nhỏ li ti rất linh động. Thuỷ ngân sôi ở 357 oC do vậy sẽ bay hơi mạnh ở nhiệt độ cao.
Methyl thuỷ ngân thường được các vi sinh vật tổng hợp từ thuỷ ngân có sẵn trong không khí, trong đất và trong nước. Trong môi trường thuỷ ngân có sẵn từ các nguồn thiên nhiên như núi lửa, than đá, cháy rừng....) và thuỷ ngân phát thải do con người (sản xuất công nghiệp, sinh hoạt hàng ngày: bóng đèn, nhiệt kế vỡ, pin hỏng...). Chúng là nguồn tạo thành Methyl thuỷ ngân và cá ăn phải nên trong cá và thuỷ sản có vỏ như nghêu sò... luôn chứa thuỷ ngân từ mức vết đến xấp xỉ 1 ppm/kg cơ thể. Hai loài cá chứa nhiều thuỷ ngân nhất là cá kiếm và cá mập, rồi đến King Macarel và cá ngừ mắt to.
Methyl thuỷ ngân có tác động độc hại như hơi thuỷ ngân kim loại hoặc hơn, nó tan trong nước, phát tán trong cơ thể nhanh hơn thuỷ ngân kim loại. Một số nhà chuyên môn cho rằng nó độc hơn cả hơi thuỷ ngân. Và người ta khuyến cáo phụ nữ có thai không được ăn một số loài cá do chúng chứa methyl thuỷ ngân hàm lượng cao và với một số loài chứa ít thuỷ ngân thì chỉ nên ăn với tần suất từ 1 đến 2 lần/ tuần.
Phơi nhiễm thủy ngân và mức độ nguy hiểm
Liệu thủy ngân có độc không? hay thủy ngân độc như thế nào? Không ít câu hỏ đã được đặt ra. Độc tính của thủy ngân vô cùng nguy hiểm. Trong các phơi nhiễm thuỷ ngân thì hít phải hơi thuỷ ngân nhiễm trong không khí hoặc Methyl thuỷ ngân là độc hại nhất, rồi mới đến ăn hoặc vô tình nuốt phải, trong đó ăn phải Methyl thuỷ ngân độc hại hơn hẳn ăn phải thuỷ ngân kim loại, cuối cùng ít nguy hiểm hơn cả là phơi nhiễm bằng cách tiếp xúc qua da.
Theo Cơ quan quản lý Đăng ký Bệnh tật và chất độc hại Mỹ thì chỉ có 0.01 % thuỷ ngân kim loại bị nhiễm vào cơ thể nếu nuốt phải, nhưng sẽ có 80% thuỷ ngân nhiễm vào máu nếu hít phải hơi thuỷ ngân kim loại. Và nếu nuốt phải Methyl thuỷ ngân thì 95% lượng của chúng sẽ bị hấp thụ khi nuốt phải.
Tác hại của thủy ngân
Phơi nhiễm thuỷ ngân như các phơi nhiễm khác đều phân ra hai loại: phơi nhiễm cấp tính tức phơi nhiễm thời gian ngắn (Acute exposure) và phơi nhiễm mãn tính tức phơi nhiễm lâu dài (Chronic exposure). Phơi nhiễm cấp ví dụ như phơi nhiễm trong một sự cố công nghiệp (cháy ở Rạng Đông chẳng hạn). Phơi nhiễm mãn tính vd như công nhân làm việc trong môi trường có thuỷ ngân luôn ở mức độc hại chẳng hạn. Trong môi trường làm việc như ở một cơ sở sản xuất bóng đèn huỳnh quang thì nồng độ cho phép của thuỷ ngân trong không khí tiếp xúc với da và trên trần nhà xưởng là phải trong giới hạn 0.1 mg/ m3 (tiêu chuẩn Mỹ) thì công nhân được cho là không bị ảnh hưởng sức khoẻ. Các nước đều có quy định về mức thuỷ ngân trong môi trường không khí ở khu vực làm việc của các ngành đặc thù có chứa thuỷ ngân.
Ảnh hưởng của thủy ngân đến sức khỏe
Dễ bị ảnh hưởng bởi thuỷ ngân và bị nguy hiểm hơn cả là bào thai (phụ nữ có thai), rồi đến trẻ sơ sinh (qua sữa mẹ hoặc trực tiếp tiếp xúc), trẻ con (infant) (qua sữa mẹ hoặc trực tiếp tiếp xúc), người bị tim phổi bệnh phổi, người có sức khoẻ yếu, cuối cùng mới đến những người không thuộc các loại nêu trên.
Có thể bị phơi nhiễm nhưng không thể hiện triệu chứng gì tuỳ cơ địa từng người. Và khi mức thuỷ ngân phải lên đến trên 20 mcg/m3 trong không khí thì con người mới cảm thấy có các triệu chứng phơi nhiễm một cách rõ rệt. Theo một tài liệu công bố trên Website của nghị viện Úc thì các nghiên cứu chỉ ra rằng mức phơi nhiễm thường xuyên trong môi trường không khí từ 20-25 mcg/m3 thì có ảnh hưởng chút ít đến thận, tuyến giáp và tuỷ sống và mức này được gọi là Mức thấp nhất quan sát thấy tác động (LOAEL-lowest observed adverse effect level). Dưới mức này sự tác động của thuỷ ngân tới sức khoẻ sẽ ít hơn và có thể chưa ghi nhận được. Tuy nhiên, nghị viện Úc vẫn đề nghị sửa LOAEL trong không khí xuống thấp nữa còn 5 mcg/ m3. Mức an toàn trung bình hàng năm cho con người họ đề xuất là 0.05 mcg/m3 không khí
Thủy ngân dạng lỏng
Xét nghiệm máu và nước tiểu là các loại xét nghiệm hay được thực hiện để kiểm tra mức độ phơi nhiễm, tuy nhiên chúng không thể hiện mức độ phơi nhiễm toàn thân.
Khi phơi nhiễm cấp thì xét nghiệm mẫu nước tiểu 24h là rất quan trọng. Mẫu nước tiểu 24h là mẫu được thu trong suốt 24h của một người, gộp vào một chai đựng chuyên dụng và chai này luôn phải trữ lạnh cho đến khi thực hiện phân tích. Mẫu máu hoặc nước tiểu lấy để xét nghiệm phải được thực hiện càng sớm càng tốt vì sau 3 ngày hàm lượng thuỷ ngân sẽ giảm đi một nửa đối với nước tiểu và sau 5 ngày tương tự như vậy với mẫu máu.
Có một điều ít người biết là chúng ta có thể bị phơi nhiễm thuỷ ngân qua thức ăn. Cách thức thuỷ ngân đi vào thức ăn của chúng ta được mô tả trên ảnh đính kèm. Trong chuỗi thức ăn (Food chain), cá càng to thì càng có mức thuỷ ngân cao tính trên 1kg cơ thể!!!
Thủy ngân kim loại trong công nghiệp sản xuất đèn chiếu sáng
Các loại bóng đèn như đèn huỳnh quang (đèn neon), đèn compact tiết kiệm điện (đèn CFL), đèn halogen, đèn thuỷ ngân cao áp, đèn UV và đèn bắt muỗi đều cần sử dụng thuỷ ngân để sản xuất và đó là nguyên liệu chưa có gì thay thế được.
Công nghệ sản xuất một số loại đèn nêu trên đã phát triển tiên tiến hơn bằng cách thay thế thuỷ ngân lỏng bằng hỗn hống cách gọi khác là amalgam. Hỗn hống là thuật ngữ chỉ hợp kim thuỷ ngân với các kim loại khác, trong đó bột các kim loại được hoà tan trong thuỷ ngân thành hợp kim dạng sệt hoặc cứng. Chất màu bạc dùng để hàn răng là một ví dụ về hỗn hống trong đó thuỷ ngân chiếm từ 42-50%. Công nghệ hỗn hống giúp cho tính năng của đèn ưu việt hơn, lượng thuỷ ngân sử dụng ít hơn, khi đèn vỡ hỗn hống cũng dễ thu gom hơn, nhưng việc bay hơi thì vẫn xảy ra nên các loại đèn này vẫn được xếp vào loại chất thải nguy hại và chính vì thế người ta thường trữ hỗn hống trong tủ lạnh.
Dù sử dụng thuỷ ngân dạng lỏng hay hỗn hống thì khi sản xuất đèn, người ta vẫn thường phải ghi rõ lượng thuỷ ngân trong đó là bao nhiêu, ở Việt Nam thì không bắt buộc phải ghi rõ.
Đối với thế giới đã có quy định lượng thuỷ ngân trong bóng CFL là 5 mg hiện nay Châu Âu quy định là 2.5 mg max. Còn nói chung thì lượng thuỷ ngân trong các loại bóng đèn đã nêu thường từ trên 0 mg đến 100 mg/ sản phẩm. Tại VN, vd đèn huỳnh quang của Philip chuyển đổi công nghệ từ thuỷ ngân lỏng sang hỗn hống đã giảm lượng thuỷ ngân từ 12 mg/ bóng đèn huỳnh quang xuống còn 9 mg/đèn (số liệu năm 2012 ). TCVN 8249:2013 hiện hành áp dụng cho bóng huỳnh quang quy định giới hạn thuỷ ngân cho một bóng đèn huỳnh quang là 15 mg max. Đối với bóng CFL thì TCVN 7896:2015 hiện hành khuyến cáo doanh nghiệp cần công bố hàm lượng thuỷ ngân và đưa dẫn chiếu tiêu chuẩn quốc tế là 5 mg max nhưng chưa có quy định cứng cho bóng CFL. 5 mg thuỷ ngân có kích thước nhỏ khoảng bằng một đầu bút bi. Và không phải ai cũng biết bóng đèn neon cháy hỏng là chất thải nguy hại theo quy định của VN, vậy nên không được vứt chúng như rác thông thường mà phải thu gom xử lý và tiêu huỷ đúng cách!!!
Ngành công nghiệp gây ô nhiễm thủy ngân hiện nay
Chắc ít người biết rằng ngành gây ô nhiễm thuỷ ngân nhất (khí thải chứa thuỷ ngân) là ngành nhiệt điện. Nguyên nhân là do đốt than, dù than chứa thuỷ ngân ở lượng rất nhỏ, nhưng do lượng tiêu thụ lớn mà gây ô nhiễm. Vậy nên các lò đốt rác bằng than hoặc các lò đốt than dân dụng theo Cơ quan Môi trường Mỹ (EPA) cũng thải một lượng đáng kể khí thải có chứa thuỷ ngân. Ở Mỹ, theo EPA thống kê, 50% tổng lượng thuỷ ngân trong không khí là do khí thải từ các nhà máy nhiệt điện. Trong năm 2005, các nhà máy đó đã sử dụng tổng lượng than có chứa thuỷ ngân với tổng lượng là 75 tấn, trong đó có 50 tấn đã bị thải ra không khí, tương đương 134 tấn/ngày.
Ngoài ra các loại đốt khác như đốt dầu, đốt khí dư... hoặc cháy rừng cũng gây khí thải chứa thuỷ ngân.
Một số quy định của Việt Nam về lượng thủy ngân trong môi trường
QCVN 01-1:2018/BYT về chất lượng nước sạch sử dụng cho mục đích sinh hoạt, quy định hàm lượng thuỷ ngân trong nước sạch là 0.001 mg/L max
QCVN 08-MT:2015/BTNMT về chất lượng nước mặt Hg 0.001 mg/L
TCVN 5938:2005 về chất lượng không khí - Nồng độ tối đa cho phép của một số chất ñộc hại trong không khí xung quanh: Hg 0.3 mcg/m3
Về chất lượng đất thì các tài liệu liên quan: TCVN 5300:2009; TCVN 7209:2002, QCVN 03-MT/BTNMT:2015 đều có quy định giới hạn cho phép của một số kim loại trong đất và không có quy định về thuỷ ngân. Theo quy định của Mỹ thì thuỷ ngân nguyên tố trong đất phải được giới hạn trong các mức như sau: Hg nguyên tố: 1 mg/kg; Hg 2+: 170 mg/kg; Methyl Hg2+: 11 mg/kg
Để tránh việc thủy ngân nhiễm trong nước thì việc lọc nước tổng sinh hoạt là điều rất cần thiết. Tham khảo các sản phẩm máy lọc nước tổng sinh hoạt tại đây
Nguồn: Phạm Thị Thúy Hà